Đau
nhức xương khớp là bệnh thường phát triển trong mùa đông khi thời tiết giá rét. Bệnh nhân nhẹ thường
có cảm giác đau nhức ở vùng xương khớp bị bệnh, hoặc cảm giác buồn như có kiến
bò ở các khớp như đầu gối, tay chân gây cảm giác khó chịu cho người bệnh.
Trường hợp nặng có có thể có thể gây biến dạng ở vùng xương khớp bị bệnh.
Trong
Đông Y, tất cả các bệnh đau nhức khớp xương, dù có sưng, nóng, đỏ hay chỉ tê
mỏi, nặng, ở các khớp thì đều thuộc chứng Tý, nghĩa là bế tắc không thông, dân
gian gọi là phong thấp. Và Đông y với nhiều bài thuốc và phương pháp điều trị
vật lý trị liệu điều trị rất hiệu quả trong bệnh này.
Nguyên
nhân đau nhức xương khớp
Đông
y cho rằng, do sức đề kháng của cơ thể không đầy đủ nên các yếu tố gây bệnh
cùng phối hợp xâm phạm đến kinh lạc ở cơ, khớp. Hậu quả là sự vận hành của khí
huyết bị tắc nghẽn, gây ra sưng đau, hoặc tê, mỏi, nặng ở một khu vực khớp
xương hoặc toàn thân.
Một
số người chính khí hư suy vì mắc bệnh lâu ngày hoặc do cao tuổi, các chức năng
hoạt động cơ thể suy yếu nên khí huyết giảm sút, không nuôi dưỡng được cân mạch,
gây thoái hóa khớp xương và đau. Vì vậy, khi chữa các bệnh về khớp, y học cổ
truyền đều hướng tới lưu thông khí huyết ở gân, xương, đưa các yếu tố gây bệnh
(phong hàn, thấp, nhiệt) ra ngoài và phòng chống tái phát.
Bệnh
đau nhức xương khớp trong đông y được chia làm nhiều thể bệnh. Dựa theo các
triệu chứng biểu hiện di chuyển hay tại chỗ, đau nhiều khớp hay 1 khớp, sợ gió,
sợ lạnh, chân tay lạnh, vận động đi lại khó khăn. Tính chất đau ( đau âm
ỉ cắn nhức hay dữ dội)…để có những pháp đồ điều trị cụ thể.
Xoa bóp trị đau nhức xương khớp
Điều trị bằng xoa bóp, bấm huyệt
Hầu hết bệnh nhân đau nhức xương khớp cảm thấy
rất khó chịu, bứt rứt, tê mỏi …Xoa bóp bấm huyệt kết hợp với châm cứu là những
kích thích vật lý tác động tại chỗ vào da, cơ, thần kinh, mạch máu có tác dụng
tại chỗ là giảm đau, giãn cơ và lưu thông khí huyết.
Phương pháp xoa bóp
Bấm huyệt
Làm các thủ thuật ấn (dùng ngón tay ấn vào
vùng huyệt cần tác động), day (dùng ô mô út hoặc gốc bàn tay ấn xuống vùng da
của bệnh nhân di động theo đường tròn), lăn (dùng mu bàn tay hoặc mặt bên của ô
mô út vận động nhẹ nhàng khớp cổ tay với một sức ép nhất định lăn trên vùng
định xoa bóp), véo (dùng đầu ngón tay cái và ngón tay trỏ, kéo da người bệnh
lên, cần làm liên tiếp cho da người bệnh luôn bị cuộn ở giữa các ngón tay của
thầy thuốc) ở các khớp và các cơ quanh khớp vùng tổn thương.
Vị trí các huyệt cần tác động
A thị huyệt: Các vị trí vùng khớp bị tổn
thương ấn vào bệnh nhân thấy đau.
Phong trì: Huyệt ở chỗ trũng phía ngoài cơ
thang, phía trong cơ ức đòn chũm sau gáy.
Khúc trì: Đầu ngoài nếp gấp khuỷu, khi gấp
cẳng tay vào cánh tay.
Phong môn: Mỏm gai D2 đo ra 1,5 thốn.
Hợp cốc: Huyệt ở chỗ lõm giữa ngón cái và ngón
trỏ, đặt đốt 2 ngón cái bàn tay bên đối diện lên hố khẩu bàn tay bên này, đầu
ngón cái ở đâu thì huyệt nằm tương ứng tại chỗ đó (giáp xương bàn 2).
Huyết hải: Ở mé trong đầu xương bánh chè đo
lên 2 thốn.
Đại chùy: Lấy huyệt ở chỗ lõm dưới mỏm gai đốt
sống cổ 7 hay trên đốt sống lưng 1.
Tam âm giao: Từ đỉnh giữa bờ trên mắt cá trong
đo lên 3 thốn, huyệt cách bờ sau trong xương chày một khoát ngón tay.
Túc tam lý: Thẳng dưới hõm ngoài xương bánh
chè 3 thốn, cách lồi củ trước xương chày 1 khoát ngón tay.
Phong long: Từ huyệt túc tam lý đo xuống dưới
5 thốn, đo ngang ra ngoài một khoát ngón tay.
Vận động: vừa xoa bóp vừa vận động các khớp
theo các tư thế, động tác hoạt động chức năng của khớp. Vận động từng bước,
động viên người bệnh kiên trì chịu đựng, tập luyện dần dần tăng biên độ hoạt
động các khớp. Khi các khớp đã phục hồi chức năng vận động thì động viên người
bệnh thường xuyên luyện tập, co duỗi vận động các khớp đều đặn hàng ngày để dự
phòng dính khớp tái phát.
Điều trị bằng châm cứu
Phương pháp điện châm được áp dụng tùy theo
từng thể bệnh:
Thể phong thấp nhiệt tý (tương ứng với viêm
khớp dạng thấp có đợt tiến triển cấp)
Điện châm các huyệt: phong trì, khúc trì,
phong môn, hợp cốc, huyết hải, túc tam lý, a thị huyệt.
Dùng phương pháp điện châm với xung điện cường
độ thích hợp (tuỳ theo ngưỡng chịu đựng của từng bệnh nhân), tần số nhanh,
thời gian 20-30 phút một lần châm, hiệu quả giảm đau rất nhanh.
Thể thấp nhiệt thương âm (tương ứng với viêm
khớp dạng thấp giai đoạn mạn tính, tiến triển chậm)
Điện châm huyệt: A thị huyệt, phong trì, khúc
trì, phong môn, hợp cốc, huyết hải, túc tam lý, tam âm giao, thái khê.
Dùng phương pháp điện châm với xung điện cường
độ thích hợp (tùy theo ngưỡng chịu đựng của từng bệnh nhân), tần số chậm, thời
gian 20-30 phút một lần châm.
Thể đàm ứ ở kinh lạc (tương ứng viêm khớp dạng
thấp kéo dài có biến dạng khớp, teo cơ, dính khớp)
Điện châm huyệt: A thị huyệt, phong môn, đại
chùy, khúc trì, hợp cốc, huyết hải, âm lăng tuyền, huyền chung, phong long, túc
tam lý.
Có thể lựa chọn phương pháp thể châm (châm
thường không kích thích xung điện) hoặc phương pháp điện châm với xung điện
cường độ thích hợp (tùy theo ngưỡng chịu đựng của từng bệnh nhân), tần số chậm,
thời gian 20-30 phút một lần châm.
Trong điều trị, các thầy thuốc còn chú ý đến
bệnh mới mắc hay đã lâu ngày, hoặc tái phát nhiều lần. Nếu mới mắc thì dùng các
phương pháp loại bỏ yếu tố gây bệnh là chính. Nếu bệnh lâu ngày hoặc tái phát
nhiều lần thì phải vừa nâng đỡ tổng trạng, bổ khí huyết, vừa loại bỏ yếu tố gây
bệnh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét